| 
    NGƯỜI GIỮ KHO TÀNG VĂN HOÁ CHĂM   
    Một tuổi thơ cơ cực. Muốn 
    thoát khỏi kiếp tôi đ̣i không có cách nào khác hơn là phải kiếm cho ḿnh cái 
    chữ, một cái nghề. Để rồi khi đă có tất cả bỗng dưng lại bỏ tất cả v́ một 
    đam mê như một linh tính mách bảo, như điềm báo trong những giấc mộng…. Tôi 
    có dịp biết đến ông qua lời giới thiệu của dịch giả Nguyễn Thành Thống, 
    người có nhiều năm nghiên cứu về văn bia Chăm:  
    - Sử văn Ngọc là chuyên gia số một, “kho” tài liệu cổ, từ 
    điển sống về văn hóa Chăm. Ông có thể dịch từ tiếng Chăm qua tiếng Việt 
    thành thơ bất cứ lúc nào hay có thể ngồi viết một mạch mà không cần tra cứu 
    cả trăm câu tục ngữ, ca dao Chăm. Ông là người sưu tầm sách Chăm cổ (trên lá 
    buông, giấy dó) và cả sử thi Raglai …. Trong khi nói chuyện ông thường dùng 
    rất nhiều thành ngữ và tục ngữ Chăm. Đây là một trường hợp hiếm hoi! Người 
    ta có thể hỏi ông bất cứ ǵ về văn hóa Chăm. Có thể nói không ngoa, ông là 
    người “giữ” kho tàng văn hóa Chăm, bởi tất cả được lưu giữ hết trong đầu 
    ông, chỉ cần “search” rồi “enter” ….  
    Và, tôi đă có một cuộc tṛ chuyện với nhà “Chăm học” nổi 
    tiếng này trong một lần ông ghé Nha Trang.  
    Sử Văn Ngọc sinh năm 1941 tại làng Hữu Đức, xă Phước Hữu, 
    Huyện Ninh Phước – Ninh Thuận (làng Hữu Đức được coi như là “kinh đô” của 
    người Chăm - ở đây có đền thờ Pogagar). Xuất thân con nhà nghèo, cha mẹ là 
    những người ở mướn. Ông có một cái tên cúng cơm khá... dị: Danao eù 
    (có nghĩa là vũng cứt), bởi theo quan niệm người Chăm một đứa con 
    kháu khỉnh phải đặt tên thật xấu để … hoá giải.  
    Năm 1946 một trận dịch tả làm chết nhiều người trong làng 
    và ông là một trong những người mắc bệnh đầu tiên. Di chứng do bị mất nước 
    để lại đến giờ là một con mắt bị hư. Khi ấy gia đ́nh tưởng ông đă chết và 
    khâm liệm đem đi mai táng. Lúc đi chôn một người bà con quá xúc động khóc to 
    lên làm ông giật ḿnh mở mắt ra. Cả nhà mới biết ông c̣n sống! Trên đường 
    trở về làng, một ông chánh tổng người Việt, vốn là một thầy lể thấy điều kỳ 
    dị ấy, bèn xuống ngựa lấy dụng cụ ra chích lể. Thấy máu c̣n tốt, ông biết là 
    đứa bé sẽ sống, bèn đặt tên là: “thằng Ngọc” rồi dặn ḍ cha mẹ đứa bé: “Hăy 
    nuôi nó sau này nó có thể làm nhiều việc”.  
    Thế nhưng, lớn lên do hoàn cảnh nhà quá nghèo, không có 
    cơ hội đến với sách vở, ông lại tiếp tục nghề đi ở mướn của mẹ cha. Sử Văn 
    Ngọc nhớ lại:  
    - Năm ấy tôi đi ở cho một gia đ́nh có một cậu quư tử tên 
    là Hán văn Hiến đang học lớp 3. Mỗi khi ăn cơm xong tôi lại lén lấy sách của 
    cậu chủ ra xem. Một hôm bị cậu chủ bắt gặp. Cậu chủ nói: “Mày biết ǵ mà 
    xem“ và lôi tôi ra đánh. Buồn quá tôi bỏ không chăn trâu nữa trở về nhà 
    quyết tâm đi học. Điều thôi thúc buộc tôi phải đi học c̣n từ chuyện người 
    cha của tôi có lần bị đánh tả tơi do dắt ngựa cho ông tổng bị trễ. Tôi tự 
    hỏi và tự trả lời: “Tại sao người ta đánh ḿnh? V́ ḿnh không biết chữ! Phải 
    biết chữ để không bị hiếp đáp. Gian khổ cách mấy cũng phải đi học”. Đó là 
    năm 1954. Tôi học với người thầy đầu tiên là thầy Thiên Sanh Cảnh, một trí 
    thức người Chăm nổi tiếng thời bấy giờ, người Chăm ở Phan Rang gọi ông là 
    thầy (gru). Vừa học vừa làm mướn, tôi học xong cấp 1 và đậu tiểu học 
    năm 1957. Lên cấp 2, một trận sốt rét khiến tôi bị rụng sạch tóc và không có 
    tiền trả viện phí. Từ đó tôi tâm niệm phải học ngành y để sau này giúp 
    người. 
    Với tâm niệm đó, tôi ra Huế học tá viên điều dưỡng ở 
    Trung tâm huấn luyện điều dưỡng, hai năm (1965–1966). Ra trường tôi về làm 
    việc ở Ninh Thuận và sau đó chuyển vào Cần Thơ. Ba năm sau về lại Ninh Thuận 
    làm ở pḥng Y tế An Phước. Tuy công việc làm ổn định, nhưng tôi có linh tính 
    rằng đây không phải là nghề nghiệp ḿnh gắn bó suốt đời. Điềm báo trong 
    những giấc mộng luôn khiến tôi không an ḷng với nghề y. Và, cái linh tính 
    đó như một ngả rẽ định mệnh của cuộc đời.  
    Năm 1977 nhân một đêm đi nhóm họ, có một người nói với 
    tôi: “Đời này lắm đá nhưng không có ngọc. Dân tộc Chăm lúa ít, cỏ nhiều”. 
    Câu nói ấy của dân tộc Chăm như một tiếng chuông chùa vọng vào trí năo, vỡ 
    toang những trăn trở trong tiềm thức tôi bấy lâu nay. Về nhà, tôi mua một 
    cuốn tập nhờ chép cả bài thơ 35 trang bằng tiếng Chăm, quyết tâm tự học. Lần 
    ṃ trong 3 ngày với cuốn vần Chăm do Viện Ngôn ngữ mùa hè (Summer Institute) 
    biên soạn có sự cộng tác của ông Thiên Sanh Cảnh, tôi đọc được hết bài thơ. 
    Mới thấy ḿnh hiểu về ngôn ngữ Chăm quá ít, phải đi tầm sư học đạo. Nhờ một 
    người bạn của thầy Thiên Sanh Cảnh tên là Trượng An, tôi lần lượt đọc được 
    những bài thơ về ngày tháng đến những bài thơ về thế sự; từ Ariya, Poh 
    chatuai, Tơi lơi, Ambingu…. Đọc đến đâu nổi gai ốc đến đó, những gịng thơ 
    như thấm vào máu thịt…. Và thế là, bỏ hết tất cả mọi công việc, tôi lao vào 
    nghiên cứu tiếng Chăm  
    Khi tôi gặp thầy Thiên Sanh Cảnh, thấy bộ dạng lôi thôi 
    của tôi, thầy hỏi: “Học tiếng Chăm để làm ǵ? Có phải làm thầy cúng không?”. 
    Biết mục đích của tôi là muốn nghiên cứu tiếng Chăm, thầy mới chấp nhận cho 
    làm học tṛ và cho tôi dịch truyện “Chay dalim bălăk” viết bằng chữ La tinh 
    ( tiếng Việt có nghĩa là “Cậu Lựu tím”). Tôi dịch sang tiếng Chăm rồi dịch 
    sang tiếng Việt. Khi thầy thấy bản dịch đạt yêu cầu, tôi quyết định xin nghỉ 
    việc ở cơ quan để chuyên chú vào tiếng Chăm. Đây là một giai đoạn khá khó 
    khăn trong cuộc đời tôi: một vợ, mười con, không công việc làm ổn định và 
    suốt ngày chỉ biết…. nghiên cứu tiếng Chăm. 
    Năm 1978, Tiến sĩ Phan Lạc Tuyên khi đi điền dă ở Phan 
    Rang đă đến ở lại nhà tôi. Tôi có cơ hội cộng tác với ông bằng những bài 
    viết về phong tục của người Chăm, sau này in trong tập “Những vấn đề về dân 
    tộc học Việt Nam” – Tập 2. Cũng trong năm đó, cơ hội cuộc đời mở ra với tôi, 
    tôi được mời đi dự hội nghị về Dân tộc học tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh.
     
    Với điệu bộ hóm hỉnh, Sử Văn Ngọc kể tiếp:  
    - Lần đó tôi đến hội nghị với bộ dạng lôi thôi chưa từng 
    thấy (v́ nghèo quá mà!). Người ta th́ trịnh trọng veston, cà–vạt, c̣n ḿnh 
    th́ áo bỏ ngoài quần, chân mang dép… Đă vậy c̣n được ngồi chung mâm với các 
    VIP nữa chứ! Đến nỗi có nhiều đại biểu phải giật ḿnh: “Hắn ta đến đây làm 
    ǵ nhỉ?”. Khi tôi lên đọc tham luận, mọi người mới biết. Trong hội nghị có 
    một người Nga đang học môn dân tộc học ở Liên Xô (cũ) đăng kư xin gặp tôi để 
    t́m hiểu về những món ăn truyền thống của người Chăm. Và, tôi đă giới thiệu 
    từ các món ăn dân dă đến những món chỉ dành trong các đại tiệc, lễ lạc. Từ 
    món “mắm cái, cà cỏ” – là một loại cà mọc hoang giống như cà pháo nhưng da 
    rất dai, để thưởng thức món này phải nhai kỹ, chậm răi, đặc biệt loại cà này 
    là một loại thuốc chữa giun sán; hay đến món thịt (dê, gà, trâu, heo) nướng 
    hay luộc… chỉ dành để cúng ông bà tổ tiên... 
    Năm năm lao vào nghiên cứu tiếng Chăm, đói đến “xanh con 
    mắt”, vợ con cằn nhằn... Tác phẩm đầu tay đánh dấu quá tŕnh nghiên cứu chữ 
    Chăm của Sử Văn Ngọc là bản thảo cuốn Từ điển Chăm - Việt có khoảng 10 ngh́n 
    từ; có cả thành ngữ, tục ngữ …  
    Năm 1993 Sử Văn Ngọc được giám đốc Sở Văn hóa thông tin 
    Ninh Thuận là Hải Liên mời cộng tác làm các đề tài về Lễ hội Chăm. Từ những 
    bài viết: “Lễ tế trâu ở núi Đá Trắng”, dài 28 trang, hay bài viết “Lễ tế 
    thần thủy”…, năm 1994, ông được vào làm việc chính thức tại Trung Tâm Nghiên 
    Cứu Văn Hoá Chăm – Ninh Thuận.  
    Sử Văn Ngọc nhớ lại:  
    - Hồi đó một tuần hai ngày, tôi đạp xe 15 km từ nhà đến 
    cơ quan bằng chiếc xe đạp không thắng, phải xin con 200đ dằn túi. Tháng 
    lương đầu tiên ghim chặt trong túi, một tay sờ túi (sợ bị mất) một tay nắm 
    ghi – đông, đạp xe ra chợ mua liền 5 lít nước mắm v́ trong suốt thời gian 
    nghiên cứu chữ Chăm, nghèo đến nỗi không có tiền mua nước mắm ăn. Đó là lần 
    đầu tiên tôi thấy giá trị của đồng tiền cho dù trước kia tôi có một cuộc 
    sống đầy đủ và chẳng bao giờ phải lo đến chuyện tiền bạc.  
    Là hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, hội viên hội 
    Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Trung ương … (hội viên của rất nhiều 
    … hội), cộng tác viên của Viện Ngôn ngữ Trung tâm Khoa học xă hội và nhân 
    văn quốc gia … Sử Văn Ngọc đă tham gia, dịch sử thi Raglay, đọc tàng thư 
    Chăm cổ, biên soạn nhiều tác phẩm về văn hóa Chăm như: “Các loại h́nh đám 
    tang Bà La Môn”, “Đám hỏa táng ở Hữu Đức”, “Hệ thống thủy nông và lễ nghi 
    nông nghiệp truyền thống của người Chăm”, “Lễ cầu đảo người Chăm”, “Truyện 
    cổ dân gian Chăm”, “Đám ma người Chăm Bà La Môn ở Thuận Hải”, “Giới thiệu 
    nhạc cụ truyền thống trong sinh hoạt tinh thần người Chăm”, “Lễ hội đầu năm 
    của người Chăm”, “Lễ hội Ponai của cộng đồng người Chăm Ninh Thuận” ….. 
    Ông là người thiết kế, thực hiện và viết thuyết minh về 
    nhà truyền thống Chăm ở Bảo tàng Dân tộc học (Hà Nội). Ngoài chữ Chăm, công 
    việc hiện nay của Sử Văn Ngọc là sưu tầm và dịch sử thi của người Raglai 
    trong dự án “Sử thi Tây Nguyên” của Viện Văn Hóa Dân gian.  
    Theo Sử Văn Ngọc, từ Raglai trong tiếng Chăm có nghĩa là 
    người rừng (Urang là người, lai là rừng). Tiếng Raglai và 
    tiếng Chăm giống nhau đến 80%, tuy đó là hai ngôn ngữ khác nhau. Có thể nói 
    tiếng Raglai là tiếng Chăm cổ. Có những từ Chăm ông không biết nghĩa phải 
    t́m qua tiếng Raglai mới hiểu nghĩa. Hiện ông đă văn bản hóa và dịch xong 
    1200 trang về sử thi Tây Nguyên. Đây là một công việc khá công phu bởi ông 
    phải đến các làng người Raglai, t́m những nghệ nhân c̣n hát sử sử thi được 
    (những câu hát ê a rất khó nghe), ghi âm lại, về nhà văn bản hóa và dịch 
    nghĩa.  
    Ông nói:  
    - Tôi đă làm xong được 32 băng cassette C 90. C̣n 5 sử 
    thi nữa chứa trong 42 băng đang chờ ….  
    
    Công việc qủa là bận rộn, thế nhưng đối với ông dường như đó chỉ là một cuộc 
    chơi, là niềm đam mê và tất cả đều ở trong … đầu. Người Chăm có câu: “Làng 
    đẹp bởi có cái nhà, người có hào quang bởi có cái chữ”, nh́n Sử Văn Ngọc 
    trong vẻ giản dị và rất đỗi b́nh thường, khó ai có thể biết được ông là 
    người “giàu có” bởi đang ông “giữ” kho tàng văn hóa Chăm.   Đào Thị Thanh Tuyền  |