| Cung Giũ Nguyên, 
    nhà giáo dục nhà báo nhà văn   Tôi không 
    phải là học tṛ của ông, càng không phải là người rành rẽ tiếng Pháp lắm để 
    có thể đọc được những tác phẩm văn học viết bằng tiếng Pháp của ông. Thế 
    nhưng, là một người Nha Trang và theo thiển nghĩ của cá nhân tôi - ông là 
    người biết rơ về Nha Trang nhất. Vâng, tôi tự tin khi viết lên điều này v́, 
    từ năm 1920 ông đă đến Nha Trang và đă chọn nơi đây làm chốn đi – về ( những 
    kỳ nghỉ hè, đi dạy học và cả những khi phải tha phương và cuối cùng Nha 
    Trang là bến đậu cho đến cuối đời).  Đă từ lâu tôi rất muốn viết về 
    ông, biết rằng đây là một việc rất khó v́ – Ông, một nhà văn Việt Nam viết 
    văn thuần thục 3 ngôn ngữ: Việt, Pháp, Anh; một nhà báo từng cộng tác với 
    nhiều báo chí trong và ngoài nước; một người có 70 năm đi dạy học th́ có một 
    số lượng học sinh nhiều đến thế nào …; khối lượng và giá trị những tác phẩm 
    ông đă viết; tuổi đời của tôi chưa bằng một nửa tuổi đời của ông …. Thôi 
    th́, xin làm một người kể chuyện về một người qua tiếp xúc, trao đổi và qua 
    những tài liệu thu thập được về ông.  Từ điển văn học (bộ mới) – NXB 
    Thế giới (trang 330), Hà Nội vừa mới phát hành có tên ông: Cung Giũ Nguyên. 
    (Sinh 1909). Nhà giáo dục, nhà báo, nhà văn Việt Nam. Khi đọc gần hai trang 
    tiểu sử và tác phẩm của ông, tôi đă điện thoại cho báo cho ông và một ngày 
    đầu tháng 4/2005 tôi có dịp đến thăm ông tại nhà riêng ở số 60 Hoàng văn 
    Thụ, Nha Trang.  Hôm ấy, trong căn pḥng khách nhỏ 
    bài trí đơn sơ nhưng trang trọng - trên tất cả các mặt bàn đều có những b́nh 
    hoa; tôi được biết, cách đó vài ngày, những ông Alain Freynet - Tham tán thứ 
    hai, Giám đốc Trung Tâm văn hóa và hợp tác, Đại sứ quán Pháp Hà nội, ông 
    Nicolas Warnerey - Tổng lănh sự Pháp tại Tp Hồ chí Minh, và ông Christian 
    Nererm - Tùy viên hợp tác văn hóa Tp Hồ chí Minh, cùng ông Lanig Martin, đặc 
    trách hợp tác thuộc Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang, đă đến thăm ông Cung 
    giũ Nguyên, nhân Hội thảo các Vịnh đẹp nhất thế giới và Festival biển Nha 
    Trang 2005.  Câu chuyện giữa tôi và ông đă bắt 
    đầu bằng những điều chưa rơ về ông trong Từ điển văn học (bộ mới). Ông tỏ ư 
    tiếc là việc biên tập có vài sai sót: “Trước tiên về việc chuyển họ Hồng 
    thành họ Cung không phải v́ cùng họ với Hồng Tú Toàn mà do là khi Vua Tự Đức 
    lên ngôi, v́ ngài húy Hồng Nhậm, nên những ai có họ Hồng phải sửa lại. Sau 
    này có những người đă bỏ họ Cung để trở lại họ Hồng, nhưng cũng có những 
    người để tránh việc sửa chữa những giấy tờ hộ tịch phiền phức cứ để họ Cung, 
    dù vẫn biết ḿnh họ Hồng. Việc sửa họ ấy, tôi ngạc nhiên là thợ sắp chữ ở 
    Trung Hoa cũng biết; trên mấy tờ báo ở Hương Cảng, trong bài đăng tên những 
    người từ Việt Nam qua hội kiến với Cựu Hoàng Bảo Đại. Dựa theo danh sách 
    viết chữ La Mă họ tên hành khách chuyến máy bay, tên của tôi đă không viết 
    CUNG, mà viết đúng HỒNG (= không có nghĩa là đỏ, mà với bộ Thủy bên trái, có 
    nghĩa là Lớn). Một điều đáng tiếc khác là: trong Từ điển văn học có viết: 
    “Le fils de la Balaine (tiểu thuyết, Paris, 1956) – cuốn này được Đe Xôn Đa 
    Oanfisơ (De Sohn das Walfischs) dịch ra tiếng Việt với nhan đề Người con của 
    Cá Ông hay Kẻ thừa tự ông Nam Hải (Nxb Văn học, Hà Nội, 1999)”. Có sự sai 
    lạc về phiên âm nhan đề và hành văn, nên ghi lại cho rơ là: quyển Le Fils de 
    la Baleine ra mắt ở Pháp năm 1956, đă được nhà văn Đức dịch ra tiếng Đức với 
    nhan đề DER SOHN DAS WALFISCHS và được xuất bản năm 1957 tại (Nxb) Helmut 
    Kossodo Verlag, Frankfurt & Genf (Genève). Điều thứ ba ông có ư tiếc là 
    quyển Tự điển không nói đến những tác phẩm quan trọng của ông như THÁI 
    HUYỀN, LE BOUJOUM, tập thơ TEXTE PROFANE (Bản văn trần tục) v.v hay bỏ sót 
    những quyển đă có từ lâu, như tiểu luận: Volontés d’existence (Những ư chí 
    sinh tồn) - (NXB France-Asie, Sài G̣n 1954).  ***  Cung Giũ Nguyên sinh ngày 
    20/11/1909, tại Huế, họ thật là họ Hồng cùng họ với Hồng Tú Toàn người khởi 
    xướng cuộc cách mạng nông dân miền Nam Trung Hoa và lập Thái B́nh Thiên 
    Quốc, trị v́ ở Nam Kinh từ 1851 đến 1863. V́ lư do chính trị hay kinh tế – 
    tổ tiên của ông, người Phúc Kiến đă kiều cư qua lập nghiệp tại Việt Nam từ 
    giữa thế kỷ XIX. Tại đây, họ Hồng cùng với nhiều họ Trung Hoa khác lập ở Bao 
    Vinh, Thừa Thiên, phố Thanh Hà sau thành làng Minh Hương, và sau đó đều được 
    xem là người Việt Nam. Thân phụ Cung Giũ Nguyên là ông Cung Quang Bào, một 
    Đốc học. Thân mẫu là Nguyễn Phước thị Bút, trưởng nữ quận công Hồng Ngọc và 
    cháu nội Ngài Nguyễn Phước Miên Lịch, An Thành Vương, con út Vua Minh Mạng, 
    có lần làm Nhiếp chánh Thân thần.  Sinh trưởng trong một gia đ́nh 
    nghèo và đông con, học xong trung học tại trường Quốc học Huế những năm 
    1922-27, ông phải từ bỏ giấc mộng học trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội để đi 
    làm việc. Ông nói: “Về vẽ th́ tôi đă may mắn gặp hai thầy rất tốt là thầy 
    Tôn Thất Sa và thầy Georges Leloup…”. Những bức tranh hiện treo trong pḥng 
    khách nhà ông đều do ông vẽ từ bức chân dung của mẹ ông cho đến bức chân 
    dung của ông, của vợ ông… Căn nhà ông đang ở hiện nay là căn nhà của cha ông 
    mua ban đầu là nhà tranh và được xây thành nhà gạch từ năm 1929 cho đến bây 
    giờ.  Năm 1928 ông được bổ làm trợ giáo 
    tập sự tại trường Nam tiểu học Nha Trang, nhưng đến đầu năm 1930 bị băi 
    chức, v́ lư do chính trị. Đó là năm đánh đấu khúc quanh cuộc đời của ông; 
    sau đó ông phiêu lưu vào Sài g̣n, Đà lạt, Huế, Nha Trang… “Trong thời gian 
    bốn năm mà tôi làm hơn bảy nghề. Tôi viết báo, viết sách, làm gia sư, làm kế 
    toán cho một hăng sửa xe của người Pháp, làm thư kư cho một đồn điền cao su 
    ở Xuân Lộc, bán hàng, đă có lúc tôi định đi theo gánh cải lương nhưng bị từ 
    chối v́ khi nghe tôi ca thử một bài Tứ Đại Óan, nghệ sĩ Năm Châu đă thành 
    thật khuyên tôi nên chuyển nghề khác, tôi cũng đă làm thợ sửa ảnh….”  Năm 1936, người cha mất (cho đến 
    giờ ông vẫn tiếc là cha ông đă ra đi quá sớm không để cho ông có th́ giờ 
    chứng minh ông đă trở lại nối nghiệp thầy giáo ), v́ trách nhiệm đối với gia 
    đ́nh, ông về lại Nha Trang và năm 1941 trở lại nghề dạy học. Ông đă dạy các 
    môn Việt văn, Hán văn, La tinh, Pháp văn, Anh văn, Sử địa, Kinh tế học, 
    Triết học, Văn học… ở các trường Kim Yến, Trường Ḍng Thánh Giuse B́nh Tân, 
    La San, Phanxicô… Collège de Nha Trang, Vơ Tánh, Lê Quư Đôn…. Từ năm 
    1955-75, ông làm Hiệu trưởng trường Trung học đệ nhị cấp Lê Quư Đôn, Nha 
    Trang. Từ 1972-75, Giáo sư thỉnh giảng Viện đại học Cộng đồng duyên hải, Nha 
    Trang. Từ 1989 đến 1999, ông là Giáo sư thỉnh giảng môn ngôn ngữ và văn 
    chương Pháp tại khoa Pháp văn, Trường Cao đẳng sư phạm Nha Trang. Ông c̣n 
    tham gia nhiều công tác xă hội ở Nha Trang, Sài g̣n; đă từng làm Deputy Camp 
    Chief of Gilwel, London, phụ tá Trại trưởng Trại Huấn luyện Hướng đạo quốc 
    tế, Gilwell, Anh quốc, để làm Trại trưởng Hướng Đạo Việt Nam,v.v…..  Cuộc đời viết văn của ông đánh 
    dấu bằng tác phẩm đầu tay là một truyện ngắn nhan đề là T́nh ái myơ đăng 
    trên tờ Đông Pháp thời báo, Sài g̣n năm 1928. Ông đă viết hàng ngàn bài báo 
    cộng tác với các báo: Đông Pháp thời báo, Sài g̣n mới (Sài g̣n), Nam Phong ( 
    Hà Nội), Đông Dương mới (L’Indochine Nouvelle, Sài g̣n), Pháp Việt (France – 
    An nam ), Nhật báo Huế (La Gazette de Huế), Tân văn (Sài g̣n), Hội thảo 
    (Symposium, Syracuse), Sách báo nước ngoài (Book Abroad, Oklahoma, Hoa Kỳ), 
    Pháp Á (France-Asie, Sài g̣n), Bách Khoa (Sài g̣n), Sự hiện diện Pháp ngữ 
    (Présence Francophone, Sherbrook – Canada), Đại học Huế, Tri thức (Đà Lạt), 
    Diễn đàn (La Tribune, Sài g̣n)….  Năm 1938-40 cùng với Raoul Serène 
    – Tiến sĩ khoa học đă từng làm Giám đốc Viện Hải dương học Đông Dương chủ 
    trương nguyệt san Tạp chí Tuổi trẻ (Le Cahiers de la Jeunesse) ở Nha Trang. 
    Năm 1939, ông làm Chủ bút nguyệt san song ngữ Tương lai tạp chí, Nha Trang. 
    Năm 1939 – 42, làm Chủ bút Nhật báo Châu Á buổi chiều (Le Soir d’Asie, Sài 
    g̣n). Từ 1954, Chủ bút tuần báo Báo chí viễn Đông (La Presse d’Extrême – 
    Orient, Sài g̣n).  Trong thư mục tác phẩm đă in và 
    chưa in của ông có đến gần trăm cuốn; có thể kể đến như, về tiếng Việt: Một 
    người vô dụng (Tín Đức thư xă, Sài g̣n, 1930); Nhân t́nh thế thái (tập 
    truyện ngắn, Phổ thông văn xă, Gia Định, 1931); Nợ văn chương (Nhà in Châu 
    Tịnh, Vinh, 1934); Những ngày phiêu bạt (kư), Nửa gánh tang bồng, Một chuyến 
    về…; về tiếng Pháp ông được thế giới biết đến nhiều vào những năm 50 – 60 
    với các tác phẩm Le fils de la Balaine (tiểu thuyết, Paris, 1956), Le 
    Domaine Maudit (tiểu thuyết, Fayard, Paris, 1961), Volontés d’existence 
    (France-Asie, Sài g̣n 1954)…; riêng Le Boujoum (roman Dallas, Tesax, USA, 
    2002 – tái bản) ông viết sau này ….  Le fils de la Balaine đă được 
    nhiều nhà phê b́nh văn học nổi tiếng trong và ngoài nước đánh giá cao. 
    Daniel-Rops, viện sĩ Hàn Lâm Pháp nhận xét: “Với một Cung Giũ Nguyên, có thể 
    cạnh tranh với một Pourrat, một Ramuz, một Giono, một Monique Saint-Hélier…, 
    đó là điều mới lạ”. Le fils de la Balaine được tái bản ở Canada năm 1978 và 
    được Nguyễn Thành Thống dịch sang tiếng Việt với tựa đề Kẻ thừa tự của ông 
    Nam Hải (NXB Văn học, Hà Nội 1995).  Le Domaine Maudit (Đất dữ) cũng 
    được nhiều nhà phê b́nh chú ư; nhà văn Vơ Hồng đă viết về cuốn sách (đăng 
    trên Bách Khoa, Sài g̣n ngày 15-6-1962) như sau: “Văn của tác giả viết tự 
    nhiên mà có nhiều thú vị … Những triết lư nhân sinh cũng được tŕnh bày dưới 
    h́nh thức đơn giản nhưng thầm kín… Le Domaine Maudit lấy khung cảnhViệt Nam 
    nhưng câu chuyện có thể xảy ra ở bất cứ nước nào có sự tranh chấp giữa các ư 
    thức hệ, nghĩa là giữa những quan niệm khác nhau về hạnh phúc và t́nh yêu”.
     Volontés d’existence (Những ư chí 
    sinh tồn) thuộc về loại tiểu luận gồm ba bài. Bài thứ nhất tŕnh bày căn 
    nguyên giải phóng cá nhân và dân tộc Việt Nam. Bài thứ hai tŕnh bày nền văn 
    chương Việt Nam và bài thứ ba bàn đến nỗi ḷng bi đát của Nguyễn Du. Ba bài 
    quy tụ chung quanh một ư chính: những ư chí sinh tồn của con người Việt Nam 
    và dân tộc Việt.  Trong Volontés d’existence, mới 
    thấy xuất xứ một câu mà website EL CANDIL (ngọn nến của Tây ban Nha), xem là 
    danh ngôn, liệt kê vào Danh ngôn về Tự Do (frases de Libertad, đăng cùng một 
    trang với danh ngôn của những nhà tư tưởng lớn tiền bối như Max 
    Steiner,Carla B.Gonzalez, Mikail Bakounin (1814-1876)vv.  Tác phẩm Le Boujoum, dày 756 
    trang, một tác phẩm đầy triết lư ông viết từ năm 1976 đến năm 1980 và chính 
    ông đă dịch sang tiếng Việt với tựa đề là Thái Huyền (NXB Đại Nam, 
    California, 1994). Ông viết Le Boujoum để tặng người bạn thân suốt gần nửa 
    thế kỷ của ông là Raoul Serène (đă nói ở trên), mà ông gọi tên là Sếu. Trong 
    lời tựa cuốn sách, ông viết: “Cũng như với những người bạn thân khác, khi xa 
    cách và nhất là trong những năm sau này thiếu những gặp gỡ thường xuyên và 
    cuộc chuyện tṛ hữu ích, tôi có những bức thư dài cho Sếu và kèm theo thư, 
    cũng có những trang trích các sách tôi đă hoàn thành hay đang soạn thảo, để 
    cho bạn theo dơi đời sống cụ thể của ḿnh và cũng để thăm ḍ phản ứng của 
    bạn về những tác phẩm ḿnh, sợ thói tự phụ, chủ quan khiến ḿnh có nhận định 
    sai lầm về giá trị của chúng. T́nh thân hữu thật sự cho phép, và khuyến 
    khích, những phê phán thẳng thắn, dù cho có khi là tàn nhẫn, không chỉ về 
    công việc và cả về những phương diện khác. Đây không phải là dấu hiệu của sự 
    đố kỵ ganh ghét, mà là của sự thương yêu thật sự, một ước muốn xây dựng lẫn 
    nhau theo đường dáng đi, hay ít ra cũng tránh cho nhau những ảo giác về bản 
    thân cũng như về sự nghiệp”.  Le Boujoum hay Thái Huyền cũng đă 
    được nhiều nhà phê b́nh văn học ngoài nước chú ư, người ta đánh giá: từ Le 
    fils de la Balaine đến Le Boujoum là một khoảng cách lớn, kể về văn phong 
    lẫn chiều sâu tác phẩm.  Ông có tên trong danh sách các 
    nhà văn trên thế giới viết văn bằng tiếng Pháp (Tác phẩm Riveneuve (Bến 
    mới), in những tác phẩm tiêu biểu của các nhà văn trên thế giới viết văn 
    bằng tiếng Pháp– Tháng 11.2004 có trích một tập thơ của ông).  Cả cuộc đời ông là sự một phấn 
    đấu rèn luyện, t́m và trao tặng tri thức, chủ yếu là tự học, và học măi. Ông 
    nói:  - Đọc sách, đối với tôi, là một 
    lối tránh mệt nhọc, khỏi phấn đấu, v́ bẩm sinh yếu đuối. Từ cái bắt buộc, 
    tôi t́m ra thích thú với sách. Tôi đă gặp nhiều may mắn, có cơ hội làm bạn 
    với sách, có lẽ may mắn ấy không đến với tôi nếu tôi không « đầu tư » làm 
    bạn với sách, làm thân với « hiểu biết », hay bồi dưỡng trí tuệ. Thời học 
    Quốc học, tôi may mắn có được những bạn gương mẫu về học tập, luôn luôn đi 
    t́m kiến thức, kể cả trong những tṛ chơi. Tôi may mắn có những thầy cô 
    (người Pháp) có tŕnh độ truyền đạt tốt và vốn kiến thức cao. Ngoài những 
    sách giáo khoa và tác phẩm văn học ghi trong chương tŕnh mỗi niên khóa 
    chúng tôi cũng được khuyên đọc sách giải trí. Sách ở thư viện trường rất 
    phong phú, và để học sinh toàn quyền sử dụng, không phải trả tiền thuê, hay 
    không chỉ cho đọc tại chỗ. V́ không được đi học tiếp đaị học, và do đó không 
    có được những thầy hướng dẫn, tôi phải tự vạch đường học vấn với những 
    phương tiện nghèo nàn của ḿnh, gặp được một sách cũ báo cũ nào, cũng t́m 
    được trong đó đôi điều ǵ ḿnh chưa biết đến. Năm 1940, từ Saigon, tôi lên 
    Dalat để « cấm pḥng » trong mười ngày tại Tu Viện Ḍng Thánh Benoit. Tu 
    viện lúc ấy đang c̣n nghèo, không có pḥng cho người ngoài. Tôi được cho một 
    cái giường bố đặt ngay trong thư viện của ḍng. Thế là, sách đă đến với tôi, 
    những sách thuộc một phạm vi bấy lâu xa lạ với tôi, những sách siêu h́nh 
    học, thần học, ngày và đêm, tôi đă cố đọc và ghi chép, được bao nhiêu tốt 
    bấy nhiêu, vớâi những tên tác giả, sách, nhà xuất bản nào, để có thể t́m lại 
    sau nầy. Có vậy, tôi mới có thể, hai mươi năm sau, giảng triết cho lớp kinh 
    viện của một ḍng tu.  Năm 75, được lưu dung tại Đại học 
    Duyên Hải, và v́ không c̣n lớp Pháp để dạy, tôi được giao cho việc bảo quản 
    thư viện. Tôi có dịp trong mấy năm đọc đươc biết bao sách bổ ích cho tôi. 
    Cũng trong thời gian ấy tôi viết đươc cuốn JOURNAL DU KAUTHARA Nhật kư Khánh 
    Ḥa). Đến năm 1979, tôi đă thất tuần, bệnh viện Tỉnh mời tôi dạy tiếng Pháp 
    cho các y bác sĩ, và đồng thời phụ trách thư viện, lập lại danh mục, giúp 
    t́m tài liệu cho những bác sĩ cần đến. Trong thời gian làm việc cho bệnh 
    viện, tôi cũng học hỏi khá nhiều, qua những sách phải đọc qua để xếp loại. 
    Tôi làm quen với những báo như The Lancet hay Nature… mà chắc hẳn tôi sẽ 
    không bao giờ biết nếu tôi không may mắn đến nơi đây. Chính thư viện nầy đă 
    cho tôi cơ hội tiếp xúc với những sách lư thuyết về inforatique (thông tin 
    học) trước khi thấy máy vi tính, và có máy để dùng.  Một điều may mắn khác cho việc 
    học hỏi của tôi, là được ngao du đó đây, đến nhiều nước, có dịp biết nhiều 
    thư viện, viện bảo tàng lớn, những nơi thờ phụng nhiều tôn giáo, tiếp xúc 
    với nhiều giới, từ thượng lưu đến giới chai chén dân bụi đời chỉ xài tiếng 
    lóng (argot)….  Năm nay, ông đă bước sang tuổi 97 
    và vẫn c̣n miệt mài làm việc với chiếc máy vi tính mỗi ngày mà không cần 
    người phụ giúp. Hoàn thiện những bản thảo đang dang dở, hệ thống lại toàn bộ 
    tác phẩm, dịch ra tiếng Việt những tác phẩm viết bằng tiếng Pháp… Khối lượng 
    công việc th́ đồ sộ mà quỹ thời gian c̣n quá ít. Thế nhưng, “Không viết nữa 
    th́ làm ǵ!”, ông đă nói với tôi như vậy. “Đời người như một miếng da lừa, 
    mỗi ngày nó teo tóp đi một chút. Dân gian thường nói cá ươn, ươn từ cái đầu. 
    Con người cũng vậy, phải bắt cái đầu nó làm việc đừng để nó hư. Nên sống lạc 
    quan và biết cười”.  Nói về việc sống thọ, ông kể câu 
    chuyện vui:  - Tôi đươc biết, theo lời mẹ kể 
    lại sau nầy, tôi sinh ra không tốt tướng, gầy yếu, thầy thuốc, thầy bói cho 
    biết trước là không thọ. Tôi ngủ hay giật ḿnh v́ một tiếng động nhẹ. Nghe 
    theo thầy, mẹ tôi t́m mua một cái « búa thiên lôi » là một miếng nham thạch 
    màu xanh tím, h́nh lưỡi búa, mẹ làm một bọc cho búa và để dưới cái gối của 
    tôi. Phương thuốc của «thầy» quả là linh nghiệm, từ đó tôi hết giật ḿnh khi 
    ngủ, kể cả những khi có giông tố và sấm sét. Nhưng có điều đáng buồn là đầu 
    tôi măi măi bị lép như đầu cá chai. Đó là giá con người thường phải trả, 
    nhân vô thập toàn, được cái nầy phải mất cái kia….  Gần trọn một thế kỷ dành cho các 
    việc tự học, đi, viết và dạy học. Phương châm sống của ông gói gọn trong 4 
    từ nguyên hanh lợi trinh. Ông giải thích với tôi: “Nguyên là nguồn gốc - bất 
    kỳ một việc ǵ cũng phải truy t́m cho được nguồi gốc và giải thích câu hỏi 
    tại sao. Hanh là hanh thông - vượt lên những khó khăn; khi gặp khó khăn ta 
    chia vấn đề ra thành những vấn đề nhỏ, từ vấn đề nhỏ chia thành những vấn đề 
    nhỏ nữa và giải quyết từ từ. Lợi là lợi ích, lợi ích của ḿnh phải gắn liền 
    với lợi ích của người khác, những điều viết ra làm sao cho nhiều người trên 
    thế giới đọc được. Trinh là ḥa hợp - ḥa hợp ở đây có 3 ư: ḥa hợp với 
    thượng tôn, ḥa hợp với tha nhân và ḥa hợp với chính ḿnh. Trong mỗi con 
    người đều tồn tại ông thiện và ông ác, nhờ thượng tôn và những người xung 
    quanh giúp đỡ để ḥa hợp với chính ḿnh “.  Tôi hỏi ông câu hỏi cuối cùng về 
    nhận định của ông khi giới trẻ bây giờ không thích đọc sách, ông trả lời 
    bằng cách nói về dấu “…” bắt đầu và kết thúc trong Le Boujoum: “Cuộc đời 
    không có chấm dứt, từ không đến có, rồi lại từ có đến không, qua những giai 
    đoạn thành, thịnh, suy hủy, rồi thành, từ khôn đến càn, rồi lại tứ càn đến 
    khôn, qua những giai đoạn thiếu âm, thái dương, thái âm, thiếu dương, mà vật 
    lư học cho thấy qua điển h́nh của ṿng Mobius… - một ngày kia người ta sẽ 
    trở lại việc đọc sách”. Đó là câu nói khẳng định rất tự tin của ông – một 
    người sống và viết gần một thế kỷ có rất nhiều biến động với một cuộc đời 
    sôi nổi và đầy sáng tạo.  Đào Thị Thanh Tuyền  |