| 
      QUÁN XƯA 
     - Đào Thị Thanh Tuyền -  Dù trần gian có 
    xót xa  Cũng đành về với 
    quê nhà(1)   Thỉnh 
    thoảng nhớ về quá khứ, trong ký ức mịt mờ những hình ảnh, âm thanh như những 
    dữ liệu được xếp lộn xộn trong đĩa cứng của máy vi tính, tôi luôn lọc ra 
    được một chi tiết nhỏ về nó để mà hồi tưởng. Nó ở đây chỉ là một cái quán 
    bán lèo tèo vài cái bánh tráng, mấy cục kẹo gừng ngọt lự, thơm thơm … Chỉ là 
    một trong vô số những cái quán đã tạt qua trong cuộc đời, thế nhưng nó cứ 
    đeo đẳng mãi trong tôi, chập chùng ẩn hiện cả trong những giấc mơ đứt quãng, 
    nhạt nhòa.  Hồi đó, nhà tôi ở thị trấn. Mười 
    hai năm đi học, tôi chỉ có một con đường từ nhà đến trường và cái quán ấy 
    bên đường ấy là nơi dừng chân của một thời tuổi thơ tôi. Cái quán ở đầu con 
    hẽm nhỏ, đường đi tắt của lũ học trò hay những người đàn bà đi chợ về nhà ở 
    bên kia thị trấn. Ngôi nhà cổ, mái lợp ngói âm dương, phía trước che những 
    miếng tôn cũ kỹ, có bóng mát của cây sapôchê thật to trùm kín. Ở gốc cây 
    sapôchê có hai con khỉ suốt ngày đánh đu trên những nhánh cây, khẹc khẹc 
    phản ứng lũ học trò tinh nghịch. Buổi trưa đi học sớm, bọn học trò tấp vào 
    đây, mua cái bánh tráng khoai lang nướng, có rưới nước đường lên trên, vừa 
    ăn, vừa trêu ghẹo đôi khỉ con. Cái quán hồi ấy như một xã hội thu nhỏ dưới 
    cái nhìn trong veo và đầu óc nhận xét bé tí tẹo của lũ chúng tôi: ở một góc 
    xa ông chủ quán loay hoay hết bào, rồi đục, đến cưa …, có con ngựa gỗ muốn 
    long cả bốn chân. Bà chủ quán ngồi dưới đất, bên cạnh là trả than hồng, tay 
    cầm chiếc đũa, tay kia cầm vĩ tre thoăn thoắt lật qua lật lại hai mặt cái 
    bánh tráng. Lũ học trò đứa giương mắt nhìn hai con khỉ bắt chí cho nhau, cầm 
    cây chọc vào chúng rồi hào phóng tặng cho chúng mảnh bánh thừa; đứa săm soi 
    cái quầy hàng bày đủ thứ linh tinh xanh đỏ, cuối cùng chọn ra một thứ có khi 
    chẳng thích lắm để rồi tiếc hùi hụi mấy đồng bạc cắc. Cũng có đứa cắm đầu 
    vào cuốn truyện tranh nhàu nát được ông chủ lấy cho mượn từ cái kệ cũng cũ 
    kỹ, già nua như bà cụ đang ngồi bên trong ngó ra. Tên “Quán con khỉ” được 
    được hình từ lúc nào không rõ, nhưng nó còn khẳng định luôn tên con hẻm: ngõ 
    quán con khỉ.  Người ta nói khỉ là con vật 
    thường thù dai. Tôi biết điều đó khi một hôm có đứa bạn sơ ý bị nó chộp được 
    cánh tay. Nắm được tay người rồi, con khỉ đưa lên miệng và nhay mãi, đứa học 
    trò hoảng sợ mặt mày xanh mét khóc không thành tiếng. Lũ học trò xúm lại gốc 
    cây sapôchê la hét om sòm. Bà chủ quán bỏ cái bánh tráng đang nướng lật đật 
    chạy tới nắm tay con khỉ lắc lắc. Ông chủ quán thả vội cái bào đến nâng mặt 
    con khỉ và banh hàm nó ra đứa học trò mới thoát, coi như hú hồn. Trong tiếng 
    lao xao của mọi người, tôi vẫn nghe rõ, bà cụ ngồi bên trong lẩm bẩm: “Bây 
    chọc nó, bây không nhớ, nó nhớ, nó trả thù. ”. Ấn tượng về những con khỉ 
    luôn đi kèm trong tôi nét mặt xám ngoét và đôi mắt lơ láo của đứa bạn khi 
    được con khỉ nhả tay ra. Chúng tôi truyền miệng nhau về việc con khỉ biết 
    trả thù, thêm thắt chút hoang đường, tăng thêm trí tưởng tượng và sự tò mò 
    háo hức đi học sớm ghé vào quán con khỉ.  Đôi khỉ cứ loanh quanh chuyền ra, 
    chuyền vào trên cành cây sapôchê theo nhịp bước chân của lũ học trò. Tuy 
    nhiên, khi chiều cao của chúng tôi ngày mỗi tăng thì số lần bước vào cái 
    quán nhỏ xíu ấy càng giảm. Nhu cầu của tuổi bắt đầu lớn không còn là những 
    cuốn truyện tranh, cái bánh tráng khoai lang nướng hay cục kẹo gừng ngọt lự 
    nữa. Cho đến một hôm đi học về vội vã, ngang qua quán bắt gặp giàn chiêng 
    trống tiễn đưa bà cụ về cõi vĩnh hằng. Rồi đôi khỉ cũng già đi khi chúng tôi 
    chưa rời ngưỡng cửa trung học. Thỉnh thoảng ánh mắt vô tình lướt vào, tôi 
    vẫn còn thấy vài đứa học trò nhỏ đang xúm ghẹo đôi khỉ. Hai đôi mắt của 
    chúng không còn tinh anh và cử chỉ của chúng cũng đã chậm chạp đi nhiều. Tất 
    cả mọi thứ đều cũ kỹ theo thời gian, chỉ có bọn tôi đang tuổi lớn, háo hức 
    nhìn về phía trước.  *  Ấn tượng về những con khỉ trong 
    tôi đâu chỉ dừng lại ở đôi khỉ con và cái quán. Trong ba anh em, tôi là 
    người thua kém nhất nhà về ngoại hình. Nếu anh và em gái tôi thừa hưởng 
    chiều cao từ ba tôi, thì tôi thừa hưởng thước tất khiêm tốn của mẹ. Và đã 
    vậy, tuy mẹ tôi hồi ấy cũng nổi tiếng một thời về nhan sắc và ba tôi cũng có 
    thể gọi là đẹp trai, thế nhưng tôi lại nhận được ở bà và ở ông những nét mà 
    người ta thường tiếc rẻ “giá mà đừng có …” trên gương mặt của hai người. Tôi 
    thuộc lòng câu chuyện mẹ tôi đã kể không biết bao nhiêu lần về cái ngày tôi 
    còn nằm trong bụng bà. Hồi ấy anh tôi thường sốt cao và lên cơn co giật. 
    Người ta bày đem một con khỉ về nuôi sẽ hết. Ba tôi lặn lội đi vào một nơi 
    cách xa nhà mấy chục cây số xin được một con khỉ, về cột nó ở nhà sau, chỗ 
    có kê chiếc ghế bố mẹ tôi thường ngồi. Mẹ tôi, khi ấy đang có mang tôi, buổi 
    chiều ra ngồi trên ghế bố. Đọc sách chán chê, bà lại nhìn con khỉ cũng đang 
    nhìn bà ủ dột không kém vì lạ nhà, xa bầy, lẻ bạn.  Một hôm có một người bạn của ba 
    tôi đến thăm gia đình. Thấy mẹ tôi đang ngồi nhìn con khỉ, ông buột miệng 
    nói: “Người ta có mang, nhìn những hình ảnh đẹp, đẻ con cho đẹp, sao chị lại 
    nhìn con khỉ?”  Mẹ tôi giật mình, không dám nhìn 
    con khỉ nữa. Thế nhưng, lúc ấy tôi cũng đã đủ thời gian nằm trong bụng bà và 
    ngọ ngoạy muốn ra đời rồi. Đó là lý do mẹ tôi lý giải về ngoại hình của tôi: 
    “Lúc đẻ nó ra bé tí xíu, xấu ơi là xấu, cái mặt giống hệt con khỉ hồi ba mới 
    đem về làm mẹ sợ quá chừng. Đã vậy ăn cơm nó cứ ngậm trong miệng, thức ăn 
    đầy hai bên má, nhắc mãi nó mới lấy tay đẩy thức ăn ra nhai, giống như 
    khỉ!”. Lớn lên thấy tôi học giỏi, thỉnh thoảng bà lại nói vui: “Hồi đó người 
    ta an ủi mẹ sau này nó sẽ thông minh!”.  Có lần con khỉ bị xổng. Mẹ tôi đi 
    tìm dáo dác khắp xóm. Khi phát hiện nó ở trong nhà bà Tám, cách nhà tôi mấy 
    căn, mẹ tôi xin về, bà Tám không chịu: “Khỉ này là khỉ rừng, nó chạy lạc vô 
    nhà, tui bắt”. Mẹ tôi không biết kêu ai làm chứng, biết bà Tám theo đạo 
    Thiên Chúa, mẹ tôi nói: “Con khỉ này ông nhà tôi xin của cha Xứ, bà không 
    trả, tôi vào mách cha”. Bà Tám nghe nói mách cha, lật đật trả.  - Rồi sau đó nó đi đâu sao lớn 
    lên tụi con không thấy? Anh em chúng tôi lúc ấy đang ngồi vòng tròn quanh 
    mẹ, hỏi dồn.  - Sau này, ba muốn nuôi gà, cậu 
    Bảy đóng cho ba cái chuồng gà, thấy cậu thích con khỉ ba tặng. Cậu Bảy quý 
    nó lắm, đi đâu cũng mang theo. Lần đó, đi Đà Lạt, cậu cho con khỉ đi cùng, 
    dọc đường xe bị tai nạn, cậu không sao nhưng nó bị thương nặng rồi chết. Cậu 
    Bảy nói, con khỉ hy sinh cho cậu, nếu không có nó cậu đã không còn.    Cậu Bảy không phải là cậu của 
    chúng tôi. Cậu là em ruột bà Tư, bạn láng giềng của mẹ tôi. Bà Tư người 
    trong quê, lấy chồng ra phố. Hồi ấy hai nhà ở cạnh nhau. Lũ chúng tôi đồng 
    trang lứa lớn lên theo từng lớp học : từ mẫu giáo trường làng, lên trường 
    huyện… Họ hàng bên nhà tôi là ai cũng như họ hàng bên nhà bà Tư chúng tôi 
    đều thân thiết coi như người nhà. Hình ảnh cậu Bảy luôn gắn liền trong ký ức 
    tôi những ngày chợ tết. Đúng 25 tháng chạp, cậu Bảy áo bà ba đen, quần dài 
    trắng, đầu đội mũ cối màu cháo lòng, chân đi đôi dép nhựt gần đứt quai, có 
    cột sợi dây thép, tay xách cái túi đi chợ tết. Năm nào đến 25 không thâáy 
    cậu, bà Tư lại nhắc: “Sao giờ này chưa thấy cậu Bảy đi chợ tết!”. Cậu Bảy đi 
    chợ về ngồi ở hàng hiên nhà bà Tư, lũ chúng tôi xúm lại, vòng tròn quanh 
    cậu, tò mò nhìn cậu bỏ từng món đồ ra khoe:  - Mua mấy cái tim đèn hột vịt, 
    đèn cù lao về thay, mua ít bộ quần áo giấy, nhang, trầm, mua thêm dây bánh 
    in, thấy cây vạn thọ trồng trong lon sữa bò đẹïp quá mua luôn … Quên chưa 
    mua lít dầu lửa … Thôi mai mốt đi tiếp, còn mấy ngày nữa mà!  Ngày tết ở trong quê cậu Bảy vui 
    hơn ngoài phố. Cả xóm hùn lại làm một con heo rồi chia nhau, nhà nào năm đó 
    có van vái điều gì thì đăng ký trước cái đầu heo. Thịt heo chủ yếu để hầm 
    măng. Món măng hầm là món có thể hâm đi, hâm lại, múc lên cúng trong mấy 
    ngày tết chẳng sợ bị rã mà ngược lại càng hâm càng ngon. Hai ba tháng chạp 
    cậu Bảy dựng nêu. Cây nêu là cây cau thật cao, trên ngọn cậu treo một cái 
    giỏ, bên trong đựng ít trầu, cau, cái bình vôi, bánh in… Cây nêu này sẽ được 
    hạ xuống vào mùng bảy tết. Tối ba mươi cậu Bảy rước ông bà, trên bàn thờ 
    phải có đủ ba thứ: cua, tợ, hột. Tợ là món thịt luộc, hột ở đây là trứng gà 
    hay trứng vịt. Cậu Bảy gọi là cúng tam sanh. Mẹ tôi thì cho rằng: cúng tam 
    thanh là cúng ba vị thánh (?).  Ngày mùng một tết, cậu Bảy áo dài 
    đen, quần dài trắng, mang đôi dép thật mới ra nhà bà Tư rồi qua nhà tôi chúc 
    tết. Hồi ấy, mẹ tôi thường nói: “Nghĩ chưa thấy ai hà tiện như cậu Bảy. Nhà 
    cũng ruộng, cũng vườn, có lúa, có rau … Vậy mà bốn mùa, tám tiết chỉ có cái 
    áo bà ba săng đầm(2), cái quần ngả màu cháo lòng, đôi dép gần đứt quai, tết 
    mới diện bộ đồ mới”. Bà Tư nói: “Bộ đồ cậu mặc dễ chừng hơn mười cái tết. 
    Mặc đúng ba ngày cậu giặt rồi xếp cất, chờ đến sang năm”.  Ngày mùng ba cúng đưa. Tờ mờ sáng 
    đã thấy mợ Bảy đi chợ đầu năm. Hình ảnh mợ Bảy in đậm trong tôi với chiếc áo 
    dài màu đen vá quàng. Vá quàng là một cái áo dài bị rách tay hay cùi chỏ, 
    hay bị rách ở phần thân trên. Người ta mua miếng vải mới, hay xin vải cũ 
    tiệp màu về cắt bỏ phần rách và vá lại thành một chiếc áo lành lặn. Bây giờ 
    mẹ tôi vẫn thường nói: “Chẳng có thợ nào biết vá quàng khéo như ngày xưa”. 
    Hồi đó, thứ đầu tiên tôi thấy mợ Bảy mua là lòng heo. Mợ giải thích: “Cúng 
    đưa ông bà chủ yếu là tấm lòng thành của con cháu. Bắt buộc phải có món lòng 
    luộc, dụng lòng chớ không ai dụng thịt là vậy. Chợ đầu năm lòng heo là thứ 
    mắc nhất, nhưng ai cũng phải mua”.    Mất con khỉ ba tôi tặng, cậu Bảy 
    xin được ở đâu một con khỉ con khác. Lần này cậu đặt tên là con “Nuôi”. Cậu 
    Bảy cưng con Nuôi lắm, được cậu tắm rửa sạch sẽ hàng ngày, đi đâu cậu cũng 
    bồng theo. Sợ nó đi mất, cậu đeo ở cổ nó cái vòng da, và móc một sợi dây 
    xích nhỏ. Con Nuôi ngồi trên vai cậu, một tay cậu nắm dây xích, một tay cậu 
    vuốt ve đôi chân nó. Có lần con Nuôi tuột xích bỏ trốn. Cậu Bảy dáo dác tìm 
    khắp làng trên xóm dưới. Đến khi thoáng thấy bóng con Nuôi từ xa, cậu đưa 
    tay ngoắc, miệng kêu: “ Giòn, giòn, giòn, giòn(3)…. Về nhà con …”.  Mẹ tói kể, hồi nuôi con khỉ, mẹ 
    đi lên nó ngó theo lên, đi xuống nó liếc xéo xuống, coi mình làm gì để bắt 
    chước. Theo lời ông ngoại, ngày xưa nhà tranh, người ta nuôi khỉ trong nhà, 
    hàng ngày nó để ý người làm gì. Một hôm trốn ra được, khỉ trèo lên mái nhà 
    bắt chước người nhóm lửa nấu cơm, thế là người ta gán cho khỉ tội đốt nhà. 
    Kể chuyện khỉ đã đời, mẹ tôi quay về cái quán ngày xưa: “Của một ông đi 
    lính, giải ngũ về, lấy vợ, mở quán. Giờ chẳng còn khỉ cũng như không có 
    quán, nhưng cái tên thì còn mãi”.  Gần hai mươi năm chúng tôi bỏ thị 
    trấn, về thành phố lập nghiệp. Trẻ theo cha, già theo con. Ba tôi mất, mẹ 
    tôi theo con cháu ra thành phố. Những ngày tết xưa của mẹ tôi đã lùi vào quá 
    khứ. Nồi măng hầm, những tràng bánh mứt phơi cho thật trắng, những đòn chả 
    lụa nóng hổi, được làm nên bởi những âm thanh và khoảng không gian những 
    ngày giáp tết. Tờ mờ sáng, có tiếng chày giã chả đồm độp của mẹ ngoài sân. 
    Tôi mắt nhắm, mắt mở cầm đôi đũa tre chận thịt trong cối đá không cho tràn 
    ra ngoài theo nhịp chày của mẹ, rồi giã tiêu, bóc tỏi... Chút thịt vét cối 
    thế nào mẹ cũng gói một cuốn chả nhỏ xíu, mấy anh em giành nhau ăn. Đặc biệt 
    chả lụa quê tôi duy nhất không đâu có được là khi ăn có mùi nước mắm.    Tình mẹ mênh mông và bao la như 
    đại dương. Một chiều tôi đứng trước biển, thả tầm mắt theo một màu xanh ngăn 
    ngắt kéo dài mãi đến tận chân trời. “Con sóng biển dâu đã mang tình về quê 
    quán cũ”(4). Sóng vỗ thật nhẹ vào bờ như một giai điệu ngọt ngào đưa quá khứ 
    hiện về trong ký ức, ở đó mẹ và nơi chôn nhau cắt rốn luôn là một. Những 
    ngày tết xưa, những chiều nhạt nắng, ngõ nhỏ, xóm nhỏ …. và quán xưa … Tất 
    cả như nắm cát trôi tuột từ trong lòng bàn tay, rơi xuống …. Niềm vui, nỗi 
    buồn, nụ cười, nước mắt …. Tất cả đã làm nên những điều kỳ diệu cho cuộc 
    sống … .     |