| 
    ĐÊM KHÔNG NGHE 
    TIẾNG SÓNG  - Đào Thị Thanh Tuyền - Hai 
    hàng đèn cao áp màu vàng sáng rực soi rõ từng đám cỏ bên vệ đường. Có một 
    con rắn mối đi ăn đêm chạy xẹt ngang thật nhanh từ bên này; đến giữa đường 
    tim màu trắng nó khựng lại, ngẩng đầu lên nghe ngóng rồi tích tắc phóng vụt 
    vào bãi cỏ phía đường bên kia. Chỉ có anh và chiếc bóng đen ngắn ngủn đồng 
    hành. Anh dừng lại lấy trong túi áo cái bật lửa và điếu thuốc rồi ngồi xuống 
    bordure. Trên bầu trời đen chiếc đĩa tròn sắc nét màu trắng dõi theo anh qua 
    những con phố mờ tối giờ nhòe đi nhợt nhạt. Anh nhìn quanh những con đường 
    mới nằm trong khu quy họach chạy vuông vức như ô bàn cờ. Vẫn còn những khu 
    đất trống đầy cỏ lau chen lẫn những khu nhà đã được xây cất tử tế, có ánh 
    đèn vàng hắt ra từ những ô cửa sổ. Một con chó hoang như vừa chui ra từ lùm 
    cỏ lau nào đó chạy tới phía anh, nó dừng lại dỏng tai, giương mắt nhìn anh 
    như muốn làm quen. Anh húyt sáo và đưa bàn tay vẫy, con chó ngần ngừ một lúc 
    rồi chầm chậm bước tới. Đến gần chỗ anh ngồi, nó chăm chăm chờ những tín 
    hiệu tỏ vẻ chấp thuận cho nó tới gần hơn nữa. Thấy anh không còn vẫy tay hay 
    húyt sáo con vật dè dặt nằm xuống cách xa anh khỏang hai thước. Nhìn con chó 
    tự dưng trong anh có một cảm giác cô đơn và hụt hẩng lạ thường. Anh nhìn về 
    phía trước mặt, ánh đèn sáng chói nơi anh ngồi nhấn chìm khu rừng dương và 
    biển trong một màn đen. Như vậy, anh đã đi bộ hơn năm cây số từ khu phố cũ 
    để về lại nhà khách nằm trong khu vực quy họach mới này của thị xã.  Anh có đúng 22 năm để trở lại nơi 
    này. Nếu không phải là đại biểu có tham luận trong hội nghị ngày mai chắc có 
    lẽ anh không bao giờ đến đây. Ban chiều, chiếc xe rẽ ngoặc vào con đường 
    chính tim anh như muốn vỡ tung, kỷ niệm cũ và nỗi day dứt mơ hồ nào đó thi 
    nhau vò xé lòng anh. Anh đã trải qua năm năm của thời tuổi trẻ không buồn, 
    không vui ở đây. Con phố chính cắt đôi thị xã chạy dài từ Quốc lộ 1A về phía 
    biển bị chắn bởi khu quân sự cũ và rừng dương cùng một cồn cát làm đường 
    ranh phố – biển ngày xưa thường ngăn bước chân khám phá của anh. Anh không 
    thích biển nơi đây, không có núi che chắn, nó bao la và mênh mông quá dễ làm 
    anh chóang và ngộp thở. Cho đến một ngày, không chịu nổi sự tĩnh lặng luôn 
    mang dáng vẻ uể ỏai của nó, những bài giảng nhai lại kèm theo những khuôn 
    mặt học trò vô cảm, anh ra đi.  Những con đường trong phố vẫn còn 
    nguyên hàng cây xà cừ thật lớn chạy ngang dọc như những nhát dao băm vằm tim 
    anh - sự thay đổi chậm chạm nơi đây làm lòng anh càng thêm trĩu nặng. Phải 
    chi nó khác đi nhiều so với ngày xưa để anh có cảm giác mình đang đến một 
    nơi hòan tòan xa lạ. Đã vậy, những tấm banderole ghi dòng chữ chào mừng đại 
    biểu về dự hội nghị như vả nhẹ vào mặt anh, thị xã vẫn đang bao dung mở rộng 
    tấm lòng đón anh - một kẻ đã từ chối và bỏ chạy để bây giờ nhìn lại mọi việc 
    diễn ra trong cuộc đời như một “nhãn tiền” mà ở tuổi hai mươi ngày ấy anh 
    làm sao biết được!  *  Ra trường năm hai mươi hai tuổi 
    anh nhận quyết định về dạy học ở một trường trung cấp nằm trong thị xã. Cùng 
    về với anh đợt ấy có Khoa và Bích, hai người là bạn học cùng trường. Anh và 
    Khoa là dân thành phố còn Bích là người địa phương. Học trò đa phần là các 
    em học sinh vừa tốt nghiệp lớp 9, bộ đội phục viên hay cán bộ đi học. Anh 
    dạy môn phụ nên dù có đầy nhiệt huyết cũng không thóat khỏi tâm trạng chán 
    nản. Còn Khoa, tuy dạy môn chính nhưng do gia đình ở thành phố tương đối khá 
    giả, phải về đây Khoa cũng chẳng phấn khởi gì. Chỉ có Bích là thoải mái vì 
    cô được về gần nhà và được dạy môn chính.  Anh và Khoa ở cùng phòng trong 
    khu tập thể. Biết tâm trạng buồn chán của hai người, sáng nào lên lớp Bích 
    cũng tranh thủ đi sớm gần nửa tiếng tạt vào lôi anh và Khoa lên lớp. Có hôm 
    cả hai trùm chăn kín mít mặc cho Bích gõ cửa đến mỏi tay và luôn vùng dậy 
    khi nghe giọng cô bắt đầu nghèn nghẹn nước mắt.  Nhiệt tình của Bích dần cảm hóa 
    được hai người, cô kéo anh và Khoa từ trong đống chăn mền bèo nhèo trên 
    chiếc giường đơn ở khu tập thể những ngày nghỉ cuối tuần để ra phố, về quê, 
    ra biển hay về nhà cô - một ngôi nhà nằm trên con phố chính có cây xà cừ xòe 
    tán rộng phủ trùm hết vuông sân thượng, có những buổi sinh họat gia đình đầm 
    ấm cùng những món ăn ngon do chính tay mẹ cô làm thết đãi hai người. Ba Bích 
    một người đàn ông vui tính và chân thật, thích chơi cờ; thỉnh thỏang ông vẫn 
    nói đùa anh và Khoa là Sơn tinh và Thủy tinh, ai thắng ông liên tiếp ba ván 
    sẽ được ông gả con gái. Không bao giờ anh hay Khoa thắng được ông, nhưng 
    chắc có lẽ khi ấy cả hai người chẳng ai có ý nghĩ muốn thắng ông liên tiếp 
    ba ván…  Một học kỳ, hai học kỳ rồi những 
    học kỳ sau đó trôi qua trong bình lặng và tẻ nhạt vô cùng đối với anh. Những 
    lá đơn xin việc anh gởi về thành phố mong được chuyển một công việc làm khác 
    ngày càng ít hy vọng; sự tự tin trong anh mòn dần, có đôi lúc biến thành mặc 
    cảm, tự ti hay những buồn vui vô cớ. Anh đem tất cả những muộn phiền ấy trút 
    hết cho Bích. Cô yên lặng hàng giờ nghe anh tâm sự, cố gắng cùng anh tưởng 
    tượng về một tương lai khá hơn cho anh, thế nhưng cuối cùng bao giờ cô cũng 
    nhận từ anh một gáo nước lạnh hất đi vùng vằng : “Em làm sao hiểu hết được 
    những điều ấy!”. Anh chẳng thèm đếm xỉa những nét buồn u ám đến tội nghiệp 
    trên gương mặt Bích, anh chỉ biết loay hoay với những trăn trở cho riêng 
    mình.  Một buổi tối thứ bảy, Khoa đã về 
    nhà. Anh cảm thấy rất ngột ngạt trong căn phòng mười sáu mét vuông, anh lôi 
    chai rượu ra uống một mình. Những suy tư về một tương lai không có viễn ảnh 
    gì sáng sủa ở thị xã nhỏ bé và hiu hắt này thi nhau dằn xé, anh có cảm giác 
    mình như con cá bị bủa trong tấm lưới chật hẹp, càng vẫy càng bị bó chặt. 
    Đang lúc cực điểm của sự bế tắc thì Bích đến. Như người chết đuối vớ được 
    chiếc phao, anh ôm lấy Bích và trút hết vào cô những nỗi buồn, những bế tắc. 
    Bích dịu dàng vuốt ve anh xoa dịu dần sự căng thẳng. Khi sợi dây đã chùng, 
    cô nhận thấy anh chẳng hề yêu cô; cô chỉ là một từ hay một cụm từ điền vào 
    dấu ba chấm đang bị khuyết trong cuộc đời anh, cô lặng lẽ rời khỏi căn phòng 
    ấy và nuốt ực xuống cổ cảm giác buồn, tủi, đớn đau.  Cuộc sống là một chuỗi thất vọng 
    rồi hy vọng kéo dài theo dạng biểu đồ hình sin lay lắt kéo anh những giờ lên 
    lớp vô cảm. Cho đến một ngày chuỗi hy vọng ở đỉnh điểm cao nhất là lúc anh 
    nhận được sự chấp thuận về làm việc ở một viện nghiên cứu trung tâm thành 
    phố. Cùng lúc đó, tất cả như nhấm chìm anh xuống điểm cực tiểu khi Bích đến 
    báo tin có một mầm sống đang cựa quậy trong cô. Đó là một đêm mưa. Tiếng mưa 
    rơi đều đều trên mái tôn đưa anh từ từ rớt xuống đến tận cùng. Biểu đồ hình 
    sin cuốn lại chập chờn dùng dằng trong anh , cuối cùng như một sợi dây nó 
    kéo nhanh anh lên khỏi vực sâu với một lời từ chối quyết liệt: “Anh đã quyết 
    định rời khỏi nơi này trong tháng tới!”. Khi buột miệng nói xong câu đó, có 
    lẽ lần đầu tiên trong đời anh nhìn thấy một đôi mắt khác thường như vậy từ 
    Bích. Nó như một tấm thảm trải rộng được đan bằng những sợi dây thương yêu, 
    óan hận, tuyệt vọng đến căm hờn và cuối cùng được gút lại ở đường biên bằng 
    những sợi chỉ lạnh lẽo, vô hồn, không cảm xúc. Bích đứng lên, quyết liệt và 
    mạnh mẽ. Cơn mưa bên ngòai đã hết, cầm tấm áo mưa cô rũ thật mạnh cố làm rớt 
    hết từng hạt nước nhỏ rồi xếp lại một cách chậm rãi và bước rất nhanh ra 
    khỏi căn phòng ấy.  Cuối cùng mọi việc kết thúc như 
    có một bàn tay sắp đặt khéo léo. Ngày đám cưới Khoa và Bích cũng là ngày anh 
    bước lên xe đò rời khỏi thị xã. Hôm ấy mưa rất to, những giọt nước mưa như 
    những viên đá quất vào mặt anh đau rát và lạnh buốt; dù việc ra đi đã quyết 
    định từ trước nhưng cái tâm trạng của người vội vã chạy trốn vẫn theo anh 
    bao năm trời đằng đẵng về sau và đến mãi hôm nay.  Anh không gặp lại Khoa, Bích từ 
    đó; tin tức của hai người thỉnh thỏang tạt vào đời anh như những cơn mưa 
    bóng mây, khi thì nhỏ lúc thì ồ ạt. Họ đã có con, một bé gái xinh đẹp nhưng 
    yếu ớt vì được sinh ra và nuôi nấng trong bối cảnh người mẹ bị đau ốm triền 
    miên. Hai năm sau họ chia tay. Người ta nói họ không hợp nhau nhưng anh hiểu 
    Khoa đã làm xong vai trò của mình. Khoa chuyển công tác về một thành phố 
    trên cao nguyên và lập gia đình sau đó ít năm; còn Bích sau những chìm nổi 
    trong cuộc đời, như một con bướm được thóat xác cô vươn mình đứng dậy, nghe 
    nói mấy năm sau được đề bạt lên làm hiệu trưởng.  Anh bơi ngược bơi xuôi trong bể 
    cuộc đời khi chìm, khi nổi cũng đến gần mười năm sau đó mới lập gia đình. 
    Cuộc sống gia đình của anh sẽ hòan tòan thuận lợi và đầy đủ nếu vợ anh mang 
    đến cho anh những đứa con; thế nhưng, một năm, hai năm rồi năm năm hy vọng 
    ấy càng ngày càng tắt, càng chờ càng mất. Vợ anh đòi đi khám, nhưng anh nhất 
    quyết không chịu. Anh biết rất rõ điều này, anh yêu vợ thật sự và anh không 
    muốn cô phải mang tâm trạng người có lỗi. Anh nhận phần thua thiệt về mình, 
    đó là lần đầu tiên trong đời anh nhận mình là người bại trận : “Có lẽ anh đã 
    lớn tuổi nên không thể có con được, nếu chúng mình yêu nhau thì sống như vầy 
    cũng được rồi”. Anh nói với vợ như thế. Và từ đó căn nhà của họ là hai thế 
    giới riêng biệt, cô lao vào vào những đề án, những chương trình, những công 
    việc ngòai xã hội; anh chìm đắm vào những trang sách dịch, những bản văn tự 
    cổ, những tấm văn bia trải qua nhiều thế hệ, anh lút đầu sau những cuốn tự 
    điển thật dày tìm lại quá khứ trong những trang tài liệu đã có hàng trăm 
    năm. Cuộc sống của anh như con thuyền trôi chậm rãi, bình an trên dòng sông 
    thời gian đưa con người về đến một cái đích cuối cùng nào đó. Thế nhưng ám 
    ảnh về những đứa con vẫn không thôi rời bỏ anh, những giấc mơ của anh thường 
    xuyên có những đứa trẻ bụ bẫm với nhiều tiếng bi bô không rõ nét hay những 
    tiếng cười trong trẻo; thỉnh thỏang anh mơ thấy ngôi nhà trên con phố chính 
    có cây xà cừ xòe tán rộng, trên vuông sân thượng đặt sẵn một bàn cờ, có anh 
    và một người đàn ông đang thận trọng tiến thóai đẩy lui mong giành phần 
    thắng cuộc, xung quanh lũ trẻ con chạy nhảy, chơi ô quan, chơi canh chuông, 
    có đứa thụp xuống níu lấy người anh mong được anh che chắn trong một trò 
    chơi trốn tìm… Tất cả những điều đó luôn dằn vặt anh như anh đã từng có 
    những dằn vặt một thời trai trẻ ở cái thị xã buồn tẻ và uể ỏai ấy.  
    
    * 
     Con chó hoang đã lần hồi nhích 
    đến sát chân anh tự lúc nào, anh giật mình khi bàn tay bỗng chạm vào lớp 
    lông mềm của nó. Búng tàn thuốc còn đốm lửa đỏ ra xa anh đứng dậy và đi về 
    phía bóng tối. Chiếc bóng và con chó lại lẳng lặng theo chân anh trên con 
    đường vắng. Hết con đường có hàng đèn cao áp, anh rơi vào vùng ánh sáng mờ 
    nhạt của những bóng đèn nhỏ đủ soi đường cho anh xuống biển. Mặt trăng ló ra 
    khỏi lùm dương như một con mắt tò mò cố dõi theo anh. Bóng cây in trên bờ 
    cát những vệt đen lờ mờ xiên xẹo không hình thù. Không có một ngọn núi nào 
    che chắn, biển lặng như một tấm thảm trải rộng. Không gian bao la và thóang 
    đãng làm anh ngộp thở. Xuống đến mép nước, anh thấy rõ những con sóng chạ 
    nhẹ vào bờ cố không gây nên một tiếng động nào dù là tiếng xạc xào nho nhỏ. 
    Gió se se mang cái lạnh gai gai của đêm đang chuyển dần sang ngày khác. Con 
    chó lúc này đã mạnh dạn hơn, nó quấn lấy chân anh như muốn tìm một chút hơi 
    ấm. Anh ngồi xuống bờ cát, con chó phục xuống nằm bên cạnh, anh lấy tay vuốt 
    đầu con vật, được bàn tay người thương yêu nó duỗi mình dài ra và mọp sát 
    đầu xuống cát.  Người ta có thể dối với bất cứ 
    ai, dấu giếm nhiều người nhưng không bao giờ qua mắt được người mẹ. Tối nay 
    anh đã đến ngôi nhà đó. Thời gian phủ một lớp mờ lên tất cả mọi thứ. Anh dựa 
    lưng rất lâu vào cây xà cừ đã có dáng vẻ hơi cỗi vẫn xòe tán xum xuê như tựa 
    vào một người quen cũ. Qua khung cửa kính anh vẫn còn nhìn thấy bộ salon cổ 
    ngày trước. Khi cánh cửa bật mở ra, một người đàn bà có gương mặt phúc hậu, 
    mái tóc bạc trắng, dáng đi nhẹ nhàng thanh thóat nhìn anh chẳng có gì lạ lẫm 
    hay ngạc nhiên :  - Tôi biết rồi cũng sẽ có một 
    ngày cậu đến đây!  Không mời anh vào nhà, đứng dưới 
    gốc cây xà cừ bằng một giọng nhẹ như gió thỏang bà đã nói với anh:  - Mọi việc qua lâu rồi, chúng tôi 
    đã quên tất cả. Mong cậu hãy hiểu cho là giờ đây chúng tôi đang sống rất 
    bình yên.  Cánh cửa sắt kéo lại, những bánh 
    xe có lẽ từ lâu chẳng được tra dầu mỡ nghiến ren rét trên đường ray như 
    nghiền nát quả tim anh. Aùnh sáng bên trong vụt tắt trả lại bóng tối của cây 
    xà cừ trùm kín lấy người anh.  
    
    * 
     Mặt trăng đã nghiêng chếch về 
    Tây. Con chó dưới chân anh đã ngủ từ lúc nào. Biển mênh mông là thế nhưng 
    sao không hề nghe tiếng sóng? Cảm giác mỏi mệt thấm dần khắp người anh. Mọi 
    thứ mờ ảo trước mắt. Anh đứng dậy trở ngược lên con đường đi về nhà nghỉ bỏ 
    lại sau lưng bờ biển vắng và con chó hoang bằng bước chân của người đi trong 
    vô thức. Thả người xuống chiếc giường nệm, anh nằm im cố lắng nghe tiếng 
    sóng từ xa dội lại, thế nhưng xung quanh anh tất cả đều yên ắng. Anh đã có 
    một đêm ở biển không hề nghe tiếng sóng.  Anh ngủ được chút xíu thì bị đánh 
    thức bởi những âm thanh xôn xao ngòai hành lang. Hình như có một đòan khách 
    ở xa vừa đến. Màu trời xanh thật nhạt bên ngòai khung cửa sổ đã kéo anh nhổm 
    dậy. Biển gần đến nỗi anh tưởng mình có thể nhảy qua khỏi khung cửa kia là 
    rơi ngay vào làn nước xanh lơ đó. Anh bước đến bên cửa sổ nhìn xuống đường. 
    Dòng người đi biển sớm như những quân cờ di động, hàng dương kéo dài ngút 
    mắt không có điểm dừng. Trời và biển xanh đến nao lòng, thị xã mang một vẻ 
    đẹp hoang sơ và tinh khiết của một cô gái không hề có chút điểm trang. Anh 
    nhìn mãi những màu xanh được pha trộn một cách hòan hảo trước mặt với đầu óc 
    trống rỗng và giật mình khi có người gõ cửa phòng mời anh chuẩn bị đi ăn 
    sáng để bắt đầu cho ngày làm việc đầu tiên.  
    
    * 
     Hội nghị được tổ chức theo kiểu 
    bàn tròn tọa đàm. Từng thành viên tham dự lần lượt được giới thiệu. Anh bị 
    thôi miên vào góc cuối căn phòng, người ta vừa giới thiệu một đại biểu còn 
    rất trẻ, cô vừa tốt nghiệp ra trường nhưng đã có nhiều công trình nghiên cứu 
    đóng góp cho địa phương và hiện đang là giáo viên trường Cao đẳng của thị 
    xã. Một mái tóc xõa dài ôm bờ vai nhỏ nhắn, nụ cười e ấp và khuôn mặt ửng 
    hồng vì thẹn. Anh giật mình. Có phải là tuổi trẻ của anh đó không? Một khuôn 
    mặt quen lắm trong miền ký ức xa thẳm nào đó? Bên cạnh anh có tiếng một 
    người giới thiệu với một người như muốn khẳng định thêm uy tín cho cô gái: 
    “Con cô Bích, hiệu trưởng trường Trung cấp Y…”. Sống lưng anh lạnh tóat, tay 
    anh run rẩy, đầu óc anh chóang váng. Mọi việc sau đó diễn ra một cách máy 
    móc đối với anh, những ánh đèn flash lóe sáng, những ống kính đưa tới chụp 
    gương mặt anh cận kề, bài tham luận và những câu trả lời phỏng vấn bên lề 
    hội nghị… Đầu anh ong ong, tim anh muốn vỡ tung ngàn mảnh … Ngôi nhà có cây 
    xà cừ xòe tán rộng và câu nói của một người lại văng vẳng bên tai : “Giờ 
    chúng tôi đang sống rất bình yên …”. Anh đã làm dang dở một thời tuổi trẻ 
    của cả ba người: anh, Khoa và Bích và đã gây nên biết bao sự việc rắc rối 
    trong quá khứ ở đây. Anh không có quyền làm xáo trộn sự bình yên nơi này một 
    lần nữa. Thị xã vẫn rất yên tĩnh cũng như đêm qua biển không có sóng đấy 
    thôi!  Hội nghị còn tiếp tục một ngày 
    nữa, nhưng chiều tối hôm ấy không chịu nổi những dằn vặt và nỗi buồn nặng 
    trĩu trong tim, anh rời khỏi nhà nghỉ ngoắc một chiếc xe đò Bắc – Nam, vội 
    vã giống như một ngày mưa cách đó 22 năm.  Khi chiếc xe đò dừng lại một quán 
    ăn bên đường cho tài xế cùng hành khách nghỉ ngơi, ăn tối. Đứng tựa lưng vào 
    một gốc cây nhìn ra quốc lộ nhuộm màu đen thẳm của đêm anh nghe tiếng hát 
    một người mù ai óan tả cảnh gà trống nuôi con và trách cứ ông trời sao bày 
    vẽ chi nhiều bi kịch bắt người đời phải gánh chịu. Người chủ quán đang chế 
    cà phê cho khách nói bâng quơ một mình theo thói quen muốn tìm ai chia sẻ 
    trong cái đám đông đang lặng lẽ đứng, ngồi chung quanh: “Ông ta mù hát rong 
    kiếm tiền mà nuôi con gái tươm tất lắm. Con gái ông học rất giỏi , vừa thi 
    đậu vào trường chuyên thị xã …”.  Câu nói bâng quơ như nhát dao xắn 
    vào quả tim nặng trĩu của anh một nhát thật sâu. Không suy nghĩ gì thêm nữa, 
    anh khóac vội chiếc túi du lịch bước ra đường cái vẫy một chiếc xe đò Nam – 
    Bắc khác đang ngược về thị xã bỏ lại sau lưng vài câu suy đóan mơ hồ của đám 
    đông : “Ông ta vừa lên ở K. ban nãy mà…”. “Chắc chợt nhớ bỏ quên gì đó quan 
    trọng lắm nên mới vội vã quay lại như thế!”.  Người phụ xe xếp cho anh một chỗ 
    ngồi trên băng ghế sau cùng. Ngả đầu vào thành ghế anh nhắm mắt. Quá khứ, 
    hiện tại, tương lai hiện lên trong mắt anh như một cầu vồng nhiều màu sắc 
    khi nhòa, khi tỏ. Những luồng gió đêm tạt vào xe mang theo cái mùi nồng nồng 
    của rơm rạ và của đất hòa quyện với hơi người trong xe tạo thành một hơi ấm 
    xoa dịu dần nỗi đau đớn trong trái tim anh. Biển trước mặt anh trải rộng đến 
    vô cùng và xanh thẫm một màu ngọc bích. Vẫn là đêm không hề nghe tiếng sóng.   |